Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19/5/2018 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về “Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ” cũng khẳng định quan điểm cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng; công tác cán bộ là khâu “then chốt” của công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị. Do đó, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu hiện nay của Đảng ta, cần được tiến hành thường xuyên, thận trọng, khoa học và hiệu quả.
Với nhiệm vụ tham mưu công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức trong hệ thống chính trị thành phố Thủ Đức, những năm qua, Ban Tổ chức Thành ủy Thủ Đức luôn bám sát và tổ chức thực hiện tốt kế hoạch của Ban Thường vụ Thành ủy về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức. Qua đó hoàn thành toàn bộ chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức hàng năm. Góp phần tăng về số lượng, nâng cao về chất lượng đối với đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức được đào tạo, bồi dưỡng.
Những kết quả đạt được và chưa được
Có thể khẳng định, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức trong những năm qua đã được triển khai theo đúng kế hoạch của Ban Thường vụ Thành ủy Thủ Đức. Cán bộ, công chức, viên chức trong các cơ quan, đơn vị và địa phương ngày càng nhận thức rõ vị trí, tầm quan trọng của công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức trong thời kỳ mới. Từ đó nâng cao ý thức học tập, rèn luyện, phấn đấu của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức. Sự phối hợp giữa Ban Tổ chức Thành ủy Thủ Đức và Ủy ban nhân dân thành phố Thủ Đức trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức khá chặt chẽ, đồng bộ; thực hiện tốt việc sử dụng, quản lý kinh phí đào tạo cũng như thanh quyết toán kinh phí theo đúng quy định hiện hành. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức đã có những chuyển biến tích cực. Chú trọng tập trung vào việc bồi dưỡng theo vị trí việc làm, bồi dưỡng kỹ năng, tập huấn nghiệp vụ. Đội ngũ giảng viên, báo cáo viên được mời tham gia giảng dạy phần lớn là những cán bộ giàu kinh nghiệm thực tiễn, các giảng viên có uy tín tại các cơ sở đào tạo nên nội dung truyền đạt sát với tình hình thực tế của địa phương. Nhờ đó, chất lượng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức được nâng cao, từng bước hình thành đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức chuẩn hóa về trình độ chuyên môn nghiệp vụ, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động, trình độ quản lý nhà nước, đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới.
Bên cạnh những ưu điểm đạt được, vẫn còn tồn tại một số hạn chế như: Đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức vừa tham gia học tập, vừa phải hoàn thành công tác chuyên môn, do đó sự chuyên tâm dành cho việc đào tạo, bồi dưỡng đôi khi còn chưa cao. Chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức tuy đã được quan tâm nhưng khả năng ngân sách của địa phương còn hạn hẹp nên còn khó khăn trong việc hỗ trợ kinh phí cho cán bộ, công chức, viên chức đi học. Một số cơ quan, đơn vị, địa phương còn bị động trong việc sắp xếp công việc, thời gian đề cử cán bộ, công chức tham gia đầy đủ các lớp bồi dưỡng. Một số chương trình đào tạo, bồi dưỡng nặng về lý luận, trùng lặp về nội dung, thiếu tính thiết thực, chưa đi sâu vào rèn luyện kỹ năng, nghiệp vụ công tác cho cán bộ, công chức. Do vậy, mặc dù đã được đào tạo, bồi dưỡng, một số cán bộ, công chức còn lúng túng trong việc thực hiện nhiệm vụ, năng lực lãnh đạo, quản lý, điều hành, giải quyết những vấn đề thực tiễn đặt ra còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn mới.
Tư tưởng Hồ Chí Minh trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, khi đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, trước hết, cần bảo đảm nguyên tắc “thực tiễn sâu sắc”. Người cho rằng, phương thức đào tạo, huấn luyện phải cụ thể, thiết thực, phải căn cứ vào đặc điểm, yêu cầu của nghề nghiệp, trình độ cán bộ để tiến hành. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ thị học lý luận phải gắn liền với thực tiễn, tránh đào tạo chung chung, học “vẹt”, học thuộc lòng. Nguyên tắc tính thực tiễn của Người còn thể hiện việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ phải xuất phát từ đòi hỏi của thực tiễn, lấy thực tiễn làm mục đích của công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.
Thứ hai, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cao tính chủ thể và đối tượng trong công tác huấn luyện. Khi huấn luyện cán bộ, cần phải nắm bắt được “ai huấn luyện” và “huấn luyện ai”. Theo Người, không phải ai cũng có thể tham gia công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ được, người làm công tác này phải thật sự là một tấm gương về đạo đức và chuyên công tác, đồng thời, phải là người không ngừng học hỏi, tu dưỡng.
Thứ ba, không ngừng đổi mới phương pháp công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh đến mối quan hệ giữa phương pháp với mục tiêu, nội dung, các hình thức tổ chức huấn luyện và tính thực tiễn của công tác huấn luyện. Người rất phê phán kiểu làm qua loa, đại khái trong huấn luyện.
Thứ tư, việc học tập cần được thực hiện suốt đời, người dạy cũng như người học phải không ngừng học tập; đã làm cán bộ cách mạng là phải học và không ngừng học; đồng thời học phải đi đôi với “hành”; “hành” là để học. Người cho rằng phương châm học tập suốt đời là “Học ở trường, học ở sách vở, học lẫn nhau và học nhân dân, không học nhân dân là một thiếu sót lớn”.
Thứ năm, đánh giá, sử dụng cán bộ đúng với trình độ, năng lực của cán bộ. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng, trong vấn đề hiểu biết cán bộ (tức là đánh giá đúng cán bộ), tự mình phải hiểu mình, nếu không như thế thì không thể nhận rõ cán bộ tốt hay xấu. Bác Hồ chỉ ra 4 căn bệnh mà con người ta hay phạm phải: “1. Tự cao tự đại; 2. Ưa người ta nịnh mình; 3. Do lòng yêu, ghét của mình mà đối với người; 4. Đem một cái khuôn khổ nhất định, chật hẹp mà lắp vào tất cả mọi người khác nhau. Phạm một trong bốn bệnh đó thì cũng như mắt đã mang kính có màu, không bao giờ thấy rõ cái mặt thật của những cái mình trông”.
Trong việc dùng cán bộ, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, là:
- Độ lượng, không thành kiến, phải chí công vô tư.
- Tinh thần rộng rãi, gần gũi cả những người mình không ưa
- Phải sáng suốt. Có như vậy mới khỏi bị bọn vu vơ bao vây mà xa cách cán bộ tốt.
- Phải có thái độ vui vẻ, thân mật, các đồng chí mới vui lòng gần gũi mình.
- Để cho mọi người cả gan nói, cả gan đề ra ý kiến; nếu “chỉ cho họ tâng bốc mình, là một hiện tượng rất xấu”, như thế là “nội bộ Đảng âm u”, cán bộ trong lòng uất ức, oán ghét, chán nản.
- Để cho mọi người có gan phụ trách. Nếu lãnh đạo khéo thì sẽ biến tài nhỏ hoá ra tài to; lãnh đạo không khéo thì tài to cũng hóa ra tài nhỏ.
- Không bao biện, không làm thay, phải để cán bộ tùy cơ ứng biến trên nhiệm vụ đã quyết định, làm cho họ không ỷ lại. “Nếu đào tạo một mớ cán bộ nhát gan, dễ bảo, “đập đi, hò đứng”, không dám phụ trách. Như thế là một việc thất bại cho Đảng”.
Cần đổi mới trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
Để chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức đạt yêu cầu đề ra, vấn đề đầu tiên là các chương trình đào tạo, bồi dưỡng cần sát với thực tế, hướng vào các vấn đề thiết thực đặt ra từ quá trình thực thi công vụ, nâng cao kỹ năng hành chính. Thông qua đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ và kỹ năng hành chính bảo đảm tính thống nhất trong hoạt động của cơ quan hành chính, nhất là trong giải quyết các yêu cầu của nhân dân, doanh nghiệp. Nghiêm túc triển khai các quy định về vị trí việc làm và cơ cấu ngạch công chức, viên chức để xây dựng chức danh, tiêu chuẩn, vị trí việc làm và cơ cấu công chức, viên chức cho phù hợp, làm cơ sở cho việc xây dựng các kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng được cụ thể, khả thi, thiết thực, đảm bảo hoàn thành yêu cầu đào tạo, bồi dưỡng chuẩn về chức danh cán bộ và ngạch công chức theo quy định. Nội dung đào tạo, bồi dưỡng phải bảo đảm trang bị đủ kiến thức, kỹ năng nghiệp vụ theo yêu cầu công vụ, quy định theo tiêu chuẩn. Cần dành một tỷ lệ thích hợp cho kỹ năng thực hành trong cấu trúc chương trình đào tạo, bồi dưỡng cho các đối tượng khác nhau để khi gặp những tình huống cụ thể trong công tác thì cán bộ có thể xử lý nhanh, kịp thời, hiệu quả. Đối với đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý, cần chú trọng xây dựng nội dung kiến thức chuyên ngành khoa học lãnh đạo, trong đó đi sâu về kỹ năng lãnh đạo, nghệ thuật lãnh đạo nhằm trang bị cho họ những kiến thức, kỹ năng cần thiết về lãnh đạo. Chú trọng gắn liền nghiên cứu lý luận với tổng kết thực tiễn, cập nhật những chủ trương, chính sách mới và kinh nghiệm thực tế trong việc giải quyết những tình huống cụ thể thường xảy ra ở cơ sở giúp nâng cao năng lực, trình độ của cán bộ. Cho phép cán bộ được lựa chọn chương trình đào tạo, bồi dưỡng phù hợp, thiết thực với nhu cầu công việc, từ đó có động lực và thái độ học tập tích cực, nghiêm túc.
Thực tế cho thấy, phần lớn cán bộ, công chức, viên chức hiện nay đã đạt chuẩn ở những trình độ nhất định, đã qua thực tiễn, có nhiều kinh nghiệm công tác, có khả năng tự học, tự nghiên cứu, phân tích đánh giá vấn đề. Vì vậy, nên định hướng nội dung học tập, nghiên cứu, nêu vấn đề, tình huống và hướng dẫn, gợi mở, đối thoại để rèn luyện phương pháp, kỹ năng giải quyết vấn đề, xử lý tình huống. Để việc học tập có kết quả, đạt chất lượng cao, sau mỗi bài học, cụm chuyên đề nên cho học viên đi nghiên cứu, khảo sát thực tế, thực tập rút kinh nghiệm với thời gian thích hợp. Do vậy phải đổi mới phương pháp đào tạo theo hướng nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý gắn với vị trí và trách nhiệm tương ứng của cán bộ. Tùy theo đặc thù của từng môn học có thể lựa chọn các phương pháp phù hợp, vận dụng các phương pháp giảng dạy tiên tiến kết hợp sử dụng các công cụ, phương tiện dạy học hiện đại. Đồng thời nghiên cứu đề xuất cơ sở đào tạo, bồi dưỡng bổ sung, hoàn thiện giáo trình, tài liệu bồi dưỡng cán bộ cơ sở cho sát với chức năng, nhiệm vụ của từng đối tượng. Các chương trình, giáo trình phải phù hợp với thời gian đào tạo và các hệ đào tạo khác nhau, tránh sự trùng lặp kiến thức gây nhàm chán và lãng phí thời gian.